Các yếu tố tác động đến kết quả công việc của nhân viên kế toán trong môi trường ứng dụng công nghệ thông tin

Cập nhật: 12/04/2024 bởi admin0

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT

2.1. Giới thiệu

Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu là kiểm tra một số yếu tố tác động trực tiếp và gián tiếp đến kết quả công việc của nhân viên kế toán trong môi trường ứng dụng CNTT, nghiên cứu này đã khảo lược các lý thuyết nền và các nghiên cứu liên quan trong và ngoài nước về chủ đề kết quả công việc của cá nhân trong môi trường ứng dụng CNTT. Từ việc khái quát các cơ sở lý thuyết, nghiên cứu này lựa chọn nghiên cứu bốn yếu tố gồm sự hỗ trợ của nhà quản lý cấp cao, truyền thông, đào tạo vàsự thỏa mãn của người sử dụng HTTT kế toán (nhân viên kế toán) để nghiên cứu về mối quan hệ của chúng với kết quả công việc của nhân viên kế toán trong môi trường ứng dụng CNTT. Đây là các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự thành công (CSF- Critical Sucsess Factors) khi ứng dụng CNTT, đã được đề cập khi nói đến hiệu quả cạnh tranh của một tổ chức (Salmeron và Herrero, 2005).Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng tập trung một yếu tố liên quan đến “loại CNTT đang được áp dụng trong HTTTKT” đó là khái niệm ERP/ non-ERP (non-ERP được hiểu là các doanh nghiệp đang sử dụng PMKT, không phải là hệ thống ERP trong HTTTKT) để kiểm tra tác động của nó đến kết quả công việc của nhân viên kế toán trong môi trường ứng dụng CNTT.

Dựa trên các khái niệm gốc này, phần tiếp theo của chương trình bày các nội dung bao gồm định nghĩa của các khái niệm nghiên cứu, các lý thuyết nền được sử dụng trong nghiên cứu và các cơ sở để hình thành giả thuyết và mô hình nghiên cứu.

2.2. Các khái niệm trong nghiên cứu

2.2.1 Kết quả công việc cá nhân

Hiện tại, có một số định nghĩa về khái niệm kết quả công việc cá nhân như Sykes (2015) cho rằng kết quả công việc chính là cách thức mà nhân viên thực hiện tốt công việc của mình.Ở một khía cạnh khác, Goodhue và Thompson (1995) định nghĩa kết

 

quả công việc cá nhân chính là sự kết hợp giữa việc làm tăng tính hiệu quả, làm tăng tính hiệu suất và/ hoặc nâng cao chất lượng trong môi trường ứng dụng công nghệ thông tin. Hay theo D’Ambra và Wilson (2004a, 2004b) thì kết quả công việc là việc hoàn thành một danh mục các nhiệm vụ được thực hiện bởi một cá nhân.

Xuất phát từ các định nghĩa trên, nghiên cứu này hiểu kết quả công việc của nhân viên kế toán trong môi trường ứng dụng CNTT là sự kết hợp giữa việc làm tăng tính hiệu quả, làm tăng tính hiệu suất và/ hoặc nâng cao chất lượng trong môi trường ứng dụng công nghệ thông tin thông qua việc hoàn thành các nhiệm vụ kế toán.

2.2.2. Sự thỏa mãn của người sử dụng HTTT

Hiện tại, có một số khái niệm về sự thỏa mãn của người sử dụng HTTT như DeLone và McLean (2003) cho rằngsự thỏa mãn của người sử dụng HTTT là mức độ thỏa mãn của người sử dụng khi sử dụng một HTTT. Ở một khía cạnh khác thì Jiang và cộng sự (2012) cho rằng sự thỏa mãn đối với HTTT được chia thành hai loại gồm sự thỏa mãn của người sử dụng đối với HTTT và sự thỏa mãn của nhân viên đối với công việc trong HTTT.

Nghiên cứu này chấp nhận khái niệm sự thỏa mãn của người sử dụng HTTT kế toán từ nghiên cứu của DeLone và McLean (2003) tức là sự thỏa mãn của nhân viên kế toán là mức độ thỏa mãn của nhân viên kế toán khi sử dụng PMKT hoặc hệ thống ERP trong doanh nghiệp.

2.2.3. Sự ủng hộ của nhà quản lý cấp cao

Theo nghiên cứu của Thong và cộng sự (1996), Sharma và Yetton (2003) thì sự ủng hộ của nhà quản lý cấp cao được hiểu là sự tham gia một cách tích cực của các nhà quản lý cấp cao trong đơn vị đối với các vấn đề có liên quan đến sự thành công của hệ thống thông tin.

 

Chấp nhận định nghĩa trên, nghiên cứu này hiểu sự ủng hộ của nhà quản lý cấp cao đó là sự tham gia tích cực của các nhà quản lý cấp cao trong doanh nghiệp đối với việc thiết lập và sử dụng các phần mềm ứng dụng trong HTTTKT của doanh nghiệp bao gồm việc ứng dụng PMKT và hệ thống ERP.

2.2.4. Truyền thông

Trong các nghiên cứu đi trước, tác giả đã tìm thấy nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm truyền thông. Theo Gerald Miler (1966) thì truyền thông quan tâm nhất đến việc thực hiện hành vi, trong đó nguồn thông tin truyền nội dung đến người nhận với mục đích tác động đến hành vi của họ. Hay theo “Truyền thông lý thuyết và kỹ năng cơ bản” của Nguyễn Văn Dững (2018) thì truyền thông là quá trình liên tục trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm… chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức, tiến tới điều chỉnh hành vi và thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân, của nhóm, của cộng đồng và xã hội.

Truyền thông cung cấp cho nhân viên từ các khu vực chức năng khác nhau phương thức chia sẻ các thông tin quan trọng để thực hiện thành công các dự án (B. Debrabander, G. Thiers, 1984; J.D. Ford, L.W. Ford, 1995; M.L. Markus và Power, 1983; R.W. Zmud, C.P. McLaughlin, R.J. Might, , 1984). Ngoài ra, theo Littlejohn (1999) thì truyền thông sẽ giúp cải thiện việc chuyển giao kiến thức, làm tăng sự lan toả các ý tưởng, nhất là khi thông tin được truyền tải là đáng tin cậy và nó đến từ các nguồn đáng tin cậy (Soh và cộng sự, 2000).

Trong nghiên cứu này, truyền thông được hiểu là việc truyền tải các thông tin đến người sử dụng CNTT trong suốt quá trình triển khai và ứng dụng CNTT (PMKT và hệ thống ERP) trong HTTTKT của các doanh nghiệp.

2.2.5. Đào tạo

Đào tạo là hoạt động không những giúp người dùng có những hiểu biết để có thể sử dụng mà còn giúp giảm thiểu các khó khăn do sự phức tạp về công nghệ mà người

 

dùng gặp phải trong quá trình sử dụng hệ thống thông tin trong đơn vị (Amoako-Gyampah và Salam, 2004). Bên cạnh đó, theo Bolog và Nelson (2003) thì đào tạo nên tâp trung nhiều vào việc hướng dẫn về mặt kỹ thuật trong các quy trình được tạo mới (Bolog và Nelson, 2003). Ngoài ra, đào tạo được khuyên nên diễn ra trước, trong và sau khi thực hiện ứng dụng CNTT (Hong và Kim, 2002).

Trong nghiên cứu này, khái niệm đào tạo được hiểu là các hoạt động hỗ trợ đối với người sử dụng CNTT (PMKT và hệ thống ERP) để có có đủ hiểu biết và kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng CNTT mới được ứng dụng trong HTTTKT của doanh nghiệp.

2.2.6. Loại phần mềm ứng dụng

Phần mềm ứng dụng trong HTTTKT được phân thành hai loạigồm low-end và high-end (Maziyar et al, 2011). Trong đó, low-end là phần mềm kết hợp tất cả các chức năng của hệ thống kế toán, có dữ liệu riêng biệt của riêng hệ thống kế (được hiểu là các PMKT riêng lẻ) và high-end là nhóm phần mềm tích hợp tất cả các hoạt động của doanh nghiệp trong một cơ sở dữ liệu – được hiểu như là nhóm phần mềm ERP (Enterprise Resource Planning) với nhiều chức năng đa dạng.

Trong nghiên cứu này, tác giả chia phần mềm ứng dụng trong HTTTKT thành hai loại gồm ERP và non_ERP tức là nhóm PMKT.

2.2.7. Biến kiểm soát: đặc điểm cá nhân của người sử dụng

Nghiên cứu của Petter và cộng sự (2013) cho thấy đặc điểm cá nhân của người sử dụng có thể tác động hoặc không đến các kết quả đầu ra của hệ thống thông tin, trong đó các đặc điểm cá nhân được xem xét gồm giới tính, tuổi, trình độ, chuyên môn, chức vụ và kinh nghiệm máy tính của người sử dụng. Nghiên cứu này dựa vào nghiên cứu của Petter và cộng sự (2013) xem các đặc điểm cá nhân của nhân viên kế toán là biến kiểm soát để loại bỏ tác động của chúng (nếu có) đến kết quả công việc của nhân viên kế toán trong môi trường ứng dụng CNTT.

 

2.3. Lý thuyết nền

2.3.1. Giới thiệu

Xuất phát từ định nghĩa kết quả công việc cá nhân được sử dụng trong nghiên cứu này và đã trình bày tại mục 2.2.1 bên trên, tác giả nhận thấy, khái niệm kết quả công việc của nhân viên kế toán được sử dụng trong nghiên cứu này là tương đồng với khái niệm “kết quả cá nhân” trong mô hình hay lý thuyết thành công của hệ thống thông tin của DeLone và McLean (1992). Vì vậy, nghiên cứu này lựa chọn phát triển các giả thuyết nghiên cứu dựa vào mô hình thành công của hệ thống thông tin (1992) và các phiên bản cập nhật của nó.

Phần tiếp theo giới thiệu cụ thể về của hệ thống thông tin và cách thức

từng phiên bản của lý thuyết/ mô hình thành công ứng dụng các lý thuyết này cho nghiên cứu.

2.3.2. Lý thuyết thành công của hệ thống thông tin phiên bản 1992

Đây là phiên bản gốc của lý thuyết thành công của hệ thống thông tin, trong nghiên cứu của DeLone và McLean (1992) sự thành công của hệ thống thông tin được đo lường bằng các yếu tố gồm chất lượng thông tin, chất lượng hệ thống, sự thoả mãn của người sử dụng, sự sử dụng, tác động cá nhân và tác động tổ chức. DeLone và McLean

(1992) đã chỉ ra bốn mối quan hệ giữa các yếu tố này như sau:

  • Mối quan hệ giữa sự thoả mãn của người sử dụng và việc sử dụng hệ thống thông tin chịu tác động bởi chất lượng thông tin và chất lượng hệ thống.
  • Sự thoả mãn của người sử dụng và việc sử dụng hệ thống thông tin có tác động hai chiều với nhau.
  • Mỗi cá nhân sẽ chịu tác động bởi sự thoả mãn cùa người sử dụng và việc sử

dụng hệ thống thông tin.

  • Mỗi cá nhân bị tác động thì sẽ dẫn đến tổ chức cũng bị tác động.

 

Nghiên cứu này của DeLone và McLean (1992) đã có sự kế thừa và phát triển các nghiên cứu đi trước về hệ thống thông tin như nghiên cứu về những khó khăn chủ yếu trong hệ thống thông tin (Keen, 1980); nghiên cứu của Davis và cộng sự (1989) về mô hình chấp nhận công nghệ; các nghiên cứu của Muller và cộng sự (2010), Shang và Seddon (2002)…về khuôn mẫu lợi ích của hệ thống thông tin.

2.3.3. Lý thuyết thành công của hệ thống thông tin phiên bản 2003

Phiên bản của lý thuyết thành công của hệ thống thông tin đã được chính hai tác giả DeLone và McLean cập nhật vào năm 2003 nhằm bổ sung, thay đổi các yếu mới cho phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của hệ thống thông tin trong môi trường thương mại điện tử. Theo DeLone và McLean (2003) thì có sáu yếu tố tác động đến sự thành công của hệ thống thông tin bao gồm: chất lượng hệ thống, chất lượng thông tin, chất lượng dịch vụ và sự thoả mãn của người sử dụng, việc sử dụng hay định hướng sử dụng hệ thống thông tin, lợi ích thuần của hệ thống (gồm kết quả cá nhân và kết quả của tổ chức). Trong mô hình này, DeLone và McLean (2003) đã chỉ ra mối quan hệ giữa sáu yếu tố đo lường sự thành công của hệ thống thông tin như sau:

  • Chất lượng hệ thống, chất lượng thông tin và chất lượng dịch vụ tác động đến

định hướng sử dụng/ việc sử dụng hệ thống thông tin và sự thoả mãn của người sử dụng

  • Sự thoả mãn của người sử dụng và việc sử dụng/ định hướng sử dụng hệ thống

thông tin có tác động qua lại.

  • Sự thoả mãn của người sử dụng và việc sử dụng/ định hướng sử dụng hệ thống thông tin là hai yếu tố tác động trực tiếp đến những lợi ích thuần của hệ thống. Đồng thời những lợi ích thuần của hệ thống cũng tác động ngược lại đến sự thoả mãn của

người sử dụng và việc sử dụng/ định hướng sử dụng hệ thống thông tin.

 

2.3.4. Mô hình thành công của hệ thống thông tin phiên bản 2013

Được phát triển và kế thừa từ hai phiên bản của mô hình thành công của hệ thống thông tin, năm 2013, Petter và cộng sự đã mở rộng mô hình thành công của hệ thống thông tin sang hướng mới đó là nghiên cứu các yếu tố tác động đến sự thành công của hệ thống thông tin. Hai phiên bản trước của mô hình thành công của hệ thống thông tin đo lường các yếu tố của sự thành công đối với một hệ thống thông tin tức là biến phục thuộc. Ngược lại, phiên bản 2013 đã cập nhật các biến độc lập có tác động đáng kể đến sự thành công của một hệ thống thông tin để cung cấp những hiểu biết đầy đủ hơn về cách thức đo lường sự thành công của một hệ thống thông tin (Petter và cộng sự, 2013).

Theo Petter và cộng sự (2013) có 15 yếu tố tác động đến sự thành công của một hệ thống thông tin bao gồm sự thích thú, niềm tin, mong đợi của người sử dụng, động lực từ bên ngoài, cơ sở hạ tầng CNTT, khó khăn trong công việc, thái độ đối với công nghệ, vai trò trong tổ chức, sự thỏa mãn của người sử dụng, mối quan hệ với nhà phát triển, kiên thức chuyên môn về quy trình, sự hỗ trợ của nhà quản trị, quy trình quản lý và năng lực tổ chức.

Hình 2.1 bên dưới tổng hợp về mô hình thành công của hệ thống thông tin dựa vào nghiên cứu của DeLone và McLean (2003) và Petter và cộng sự (2013).

 

Ứng dụng lý thuyết

Nghiên cứu này được thực hiện dựa vào lý thuyết thành công của hệ thống thông tin bao gồm ba phiên bản của nó.Trong đó khái niệm kết quả công việc của nhân viên kế toán trong môi trường ứng dụng CNTT (một yếu tố để đo lường sự thành công của HTTT) bị tác động bởi các yếu tố như sự thỏa mãn của người sử dụng (user satisfaction), sự ủng hộ của nhà quản trị cấp cao (management support). Tuy nhiên, những yếu tố này có thể có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến các yếu tố đo lường sự thành công của hệ thống thông tin (hình 3.1), vì vậy, nghiên cứu này sẽ xem xét các tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của sự thỏa mãn của người sử dụng (user satisfaction), sự ủng hộ của nhà quản trị cấp cao (management support) đến kết quả công việc của nhân viên kế toán trong môi trường ứng dụng CNTT.

 

Hai yếu tố gồm truyền thông và đào tạo được lựa chọn nghiên cứu trong luận văn này liên quan và rất gần với khái niệm kiến thức chuyên môn về quy trình (domain expert knowledge) và quy trình quản lý (management processes) (Petter và cộng sự, 2013), vì vậy, nghiên cứu này dựa vào mô hình thành công của hệ thống thông tin để đề xuất về tác động của các yếu tố này đến kết quả công việc của nhân viên kế toán trong môi trường ứng dụng công nghệ thông tin. Tương tự như trên, các tác động của hai yếu tố gồm truyền thông và đào tạo có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến kết quả công việc của nhân viên kế toán trong môi trường ứng dụng CNTT.

2.4. Giả thuyết nghiên cứu và mô hình nghiên cứu

Kế thừa các lý thuyết nền và nghiên cứu đi trước, nghiên cứu này đề xuất các giả thuyết nghiên cứu liên quan đến 5 khái niệm chính bao gồm kết quả công việc của nhân viên kế toán, sự thỏa mãn của nhân viên kế toán (người sử dụng), sự ủng hộ của nhà quản lý cấp cao, đào tạo và truyền thông. Ngoài ra để phát triển một mô hình nghiên cứu, nghiên cứu này bổ sung một khái niệm đóng vai trò là biến kiểm soát đó là khái niệm đặc điểm cá nhân của người sử dụng (nhân viên kế toán) và một khái niệm đóng vai trò là biến điều tiết đó là khái niệm ERP/ non-ERP (loại phần mềm ứng dụng đang được sử dụng trong HTTTKT của doanh nghiệp là hệ thống ERP hay PMKT tức non-ERP).

2.4.1. tr của n à quản cấp cao

Theo nghiên cứu của các tác giả Dezdar và Ainin (2009), Igbaria (1990) thì sự hỗ trợ của nhà quản lý cấp cao gồm hai loại: hỗ trợ người dùng cuối và hỗ trợ quản lý cho dự án. Hỗ trợ người dùng cuối bao gồm: hỗ trợ phát triển hệ thống, hướng dẫn chuyên ngành và hướng dẫn sử dụng ứng dụng máy tính; Hỗ trợ quản lý cho dự án bao gồm: khuyến khích quản lý hàng đầu hỗ trợ (Francoir, Bourgault, & Pellerin, 2009)

 

Theo Petter và cộng sự (2013) đã tổng hợp thì sự hỗ trợ của nhà quản trị cấp cao có tác động đến các yếu tố trong mô hình thành công của hệ thống thông tin của DeLone và McLean (1992, 2003). Vì vậy, nghiên cứu này dựa vào nghiên cứu của Petter và cộng sự (2013) để đề xuất rằng sự hỗ trợ của nhà quản trị cấp cao có tác động đến sự thỏa mãn của nhân viên kế toán bằng giả thuyết H1.

Giả thuyết 1 H1 : tr củ n qu n c p c o c mãn của nhân viên kế toán trong quá trình ứng dụng ERP)

2.4.2. ru ền t ng  tác động t c cực đến sự thỏa công nghệ thông tin (PMKT/

Như chúng ta đã biết hầu như không có một tổ chức nào muốn tồn tại và phát triển mà lại không có truyền thông đơn vị. Theo Tyre (1989) thì truyền thông là việc trao đổi thông tin giữa nhà phát triển và người sử dụng hệ thống. Bên cạnh đó, theo Daft và Lengel (1984, 1986) thì khi vấn đề truyền thông của đơn vị có được sự đa dạng và phong phú tức là có sự liên lạc một cách thường xuyên giữa người sử dụng và người đổi mới – đưa hệ thống mới vào đơn vị. Và theo Lin và Zmud (1991) thì điều này sẽ giúp giảm thiểu những hiểu lầm giữa người sử dụng và người phát triển hệ thống. Thêm vào đó, theo các tác giả Al- Mashari và cộng sự (2003) thì cần phải thực hiện công việc truyền thông một cách trung thực, cởi mở với người dùng (chú trọng trong giai đoạn đầu tiên khi bắt đầu triển khai hệ thống thông tin). Đồng thời cần phải có sự kiểm soát mạng truyền thông này và phải xác định được sự khác biệt giữa các nhóm trong tổ chức. Điều này đã được nghiên cứu bởi Rogers (1986), Farace và Mc Donal (1974). Bên cạnh đó, theo mô hình thành công của hệ thống thông tin đã giới thiệu bên trên, khái niệm sự truyền thông rất gần với khái niệm quy trình quản lý (management processes), trong khi quy trình quản lý có tác động đến sự thành công của hệ thống thông tin. Vì vậy, nghiên cứu này dựa vào các lập luận bên bên để giả định rằng tồn tại

 

một mối quan hệ giữa truyền thông và sự thỏa mãn của nhân viên kế toán – một đối tượng sử dụng hệ thống thông tin kế toán. Giả thuyết H2 được phát biểu như sau:

Giả thuyết 2 H2 : ru n t ng c tác động t c cực đến đến sự thỏa mãn của nhân viên kế toán trong quá trình ứng dụng công nghệ thông tin (PMKT/ ERP).

2.4.3. Đào tạo

Đào tạo không những giúp người dùng có những hiểu biết để có thể sử dụng mà còn giúp giảm thiểu các khó khăn do sự phức tạp về công nghệ mà người dùng gặp phải trong quá trình sử dụng hệ thống thông tin trong đơn vị (Amoako- Gyampah và Salam, 2004). Còn theo Al-Mashari và cộng sự (2003); Umble và cộng sự (2003); Bolog và Nelson (2003) thì đào tạo được xem là một thành phần cơ bản khác trong việc triển khai ERP. Thêm vào đó, việc đào tạo còn giúp chia sẻ các vấn đề phổ biến.Và điều này có thể giúp cho sự hợp tác trong hệ thống ERP tăng lên, đồng thời còn cho thấy một số mối quan hệ có thể được tạo nên bởi việc đào sâu các giả thuyết thông qua việc đào tạo trong hệ thống ERP. Bên cạnh đó, đào tạo còn cung cấp các thông tin hữu ích và thích hợp cũng như phương thức hoạt động với hệ thống hiện có và hệ thống được đề xuất cho các nhà quản lý về hệ thống ERP.Ngoài ra, theo tổng hợp của Petter và cộng sự (2013) thì kiến thức chuyên môn về quy trình (domain expert knowledge) có tác động đến sự thành công của hệ thống thông tin và do khái niệm đào tạo khá tương đồng với khái niệm kiến thức chuyên môn về quy trình, vì vậy, nghiên cứu này phát biểu giả thuyết như sau:

Giả thuyết 3 (H3):Đ o tạo c tác động t c cực đến đến sự thỏa mãn của nhân viên kế toán trong quá trình ứng dụng công nghệ thông tin (PMKT/ ERP).

2.4.4. Sự thỏa mãn của người sử dụng HTTT kế toán

Dựa vào lý thuyết thành công của hệ thống thông tin và theo nghiên cứu của Guimaraes và cộng sự (2015) thì sự thỏa mãn của người sử dụng HTTT có tác độngtích cực đến kết quả công việc của họ. Các nghiên cứu của Yoon và Guimaraes (1995), Guimaraes và Igbaria (1997) và Hunton và Beeler (1997) cũng cho kết quả tương tự như trên. Bên cạnh đó, trong nghiên cứu của Petter và cộng sự (2013) thì các tác giả đã kết luận rằng sự thỏa mãn của người sử dụng có tác động tích cực đến kết quả của cá nhân (trang 30, figure 7).Dựa vào các nền tảng lý thuyết trên,nghiên cứu này đề xuất giả thuyết H4 như sau:

Giả thuyết 4 (H4):Sự thỏa mãn của nhân viên kế toán trong quá trình ứng dụng công nghệ thông tin (PMKT/ ERP)c tác động tích cực đến sự ết qu công việc của nhân viên kế toán trong m i trường ứng dụng CNTT.

2.4.5. Loại phần mềm

Khi doanh nghiệp quyết định sử dụng phần mềm hỗ trợ cho công tác kế toán thì thường dựa trên 5 yếu tố: chất lượng phần mềm, nhà cung cấp phần mềm, chi phí và lợi ích, đặc điểm đầu ra và ý tưởng thiết kế của phần mềm (Jadhav A.S và R.M. Sonar, 2009). Bên cạnh đó, theo Maziyar và cộng sự (2011) thì phần mềm kế toán có thể phân thành loại low-end và high-end tùy theo chức năng xử lý và cách tổ chức, tích hợp dữ liệu trong hệ thống. Low-end là phần mềm trong đó kết hợp tất cả các chức năng của hệ thống kế toán và nó có dữ liệu riêng biệt của riêng hệ thống kế toán.Phần mềm low-end được sử dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và nó thường được hiểu là phần mềm kế toán riêng. Ngược lại, high-end là nhóm phần mềm tích hợp tất cả các hoạt động của doanh nghiệp trong một cơ sở dữ liệu – được hiểu như là nhóm phần mềm ERP (Enterprise Resource Planning) với nhiều chức năng đa dạng và phần mềm kế toán là một trong các phần mềm chức năng của phần mềm ERP hay còn gọi là phần mềm kế toán tích hợp. Chính vì vậy mà các phần mềm high-end thường phù hợp trong các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn. Như vậy, tùy theo mục tiêu cũng như khả năng của mình, doanh nghiệp có thể chọn giải pháp phần mềm low-end (phần mềm kế toán đơn thuần) hay phần mềm high-end (phần mềm ERP).

 

Nghiên cứu Hunton và cộng sự (2003) kết luận việc sử dụng phần mềm ERP làm tăng chỉ số ROI, ROS và ROA của doanh nghiệp. Đồng thời, nghiên cứu của Nicolaou (2004) khẳng định chỉ số ROS và tỷ suất lợi nhuận gộp trên doanh thu thuần ở các doanh nghiệp có sử dụng ERP cao hơn các doanh nghiệp không sử dụng. Như vậy, loại phần mềm ứng dụng có thể sẽ có tác động lên mối quan hệ giữa sự thỏa mãn của người sử dụng với kết quả công quả công việc của người sử dụng phần mềm. Chính vì vậy loại phần mềm có thể được xem là biến tiều tiết cho tác động của sự thỏa mãn của nhân viên kế toán đến kết quả công việc của nhân viên kế toán trong môi trường ứng dụng CNTT. Trong nghiên cứu này, tác giả bổ sung khái niệm ERP/ non_ERP vào mô hình nghiên cứu với vai trò là biến điều tiết cho tác động của loại phần mềm ứng dụng trong HTTTKT đến mối quan hệ giữa sự thỏa mãn của người sử dụngHTTT kế toán (nhân viên kế toán) đến kết quả công việc của nhân viên kế toán trong môi trường ứng dụng CNTT.

2.4.6. Biến kiểm soát: đặc điểm của người sử dụng

Đặc điểm của người dùng cuối có vai trò quan trọng đối với thành công của hệ thống thông tin (Zmud, 1979). Các đặc điểm của người dùng ảnh hưởng đến thành công của hệ thống ERP : thái độ của người dùng cuối, kỳ vọng của người dùng cuối và kiến thức của người dùng cuối về công nghệ ERP (Smith, 1988). Việc đào tạo và kinh nghiệm của người dùng cuối có liên quan đến niềm tin và cách sử dụng của người dùng cuối (Igbaria, 1990; Schewe, 1976; Zmud, 1979). Nghiên cứu của Petter và cộng sự (2013) cho thấy đặc điểm cá nhân của người sử dụng có thể tác động hoặc không đến các kết quả đầu ra của hệ thống thông tin. Do đó, trong nghiên cứu này, tác giả kế thừa các trước nghiên cứu trước và xem đặc điểm cá nhân của người là biến kiểm soát. Dựa vào nghiên cứu của Petter và cộng sự (2013), nghiên cứu này kiểm tra các yếu tố gồm giới tính, tuổi, trình độ, chuyên môn, chức vụ và kinh nghiệm máy tính của người sử dụng mà cụ thể là của nhân viên kế toán.

 

2.5. Mô hình nghiên cứu đề xuất

2.5.1. Các biến trong mô hình nghiên cứu

Từ những phân tích và lập luận ở trên, nghiên cứu này dự kiến được thực hiện với các biến nghiên cứu như sau:

  • Biến nội sinh: Kết quả công việc của nhân viên kế toán
  • Biến ngoại sinh gồm:
  1. Sự ủng hộ của nhà quản trị cấp cao
  2. Truyền thông
  3. Đào tạo
  4. Sự thỏa mãn của người sử dụng (nhân viên kế toán)
  • Biến điều tiết: Loại phần mềm ứng dụng (phần mềm kế toán đơn lẻ hay phần mềm ERP) – ERP/ non_ERP
  • Biến kiểm soát gồm: Đặc điểm của người sử dụng (nhân viên kế toán)

 

2.5.2. Mô hinh nghiên cứu đề xuất

Xuất phát từ các luận lập bên trên, nghiên cứu này đề xuất mô hình (hình 2.2) như sau:

 

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương này trình bày các nội dung gồm các khái niệm trong nghiên cứu, lý thuyết nền, giả thuyết nghiên cứu và mô hình nghiên cứu. Nghiên cứu này thực hiện với sáu các khái niệm chính gồm: kết quả công việc của cá nhân (nhân viên kế toán), sự thỏa mãn của người sử dụng HTTT kế toán (nhân viên kế toán), sự ủng hộ của nhà quản lý cấp cao, truyền thông, đào tạo và loại phần mềm ứng dụng trong HTTTKT. Để phát triển mô hình nghiên cứu, nghiên cứu này đã dựa vào lý thuyết nền là lý thuyết thành công hệ thống thông tin với 3 phiên bản của DeLone và McLean (1992), DeLone và McLean (2003) và Petter và cộng sự (2013). Kết hợp giữa lý thuyết thành công của HTTKT và một số nghiên cứu liên quan, luận văn đã phát triển 4 giả thuyết nghiên cứu gồm (H1) sự hỗ trợ của nhà quản lý cấp cao, (H2) truyền thông, (H3) đào tạo có tác động tích cực đến sự thỏa mãn của nhân viên kế toán trong môi trường ứng dụng CNTT và (H4) sự thỏa mãn của nhân viên kế toán trong quá trình ứng dụng CNTT có tác động tích cực đến kết quả công việc của nhân viên kế toán. Kết hợp 4 giả thuyết nghiên cứu cùng với hai biến gồm (i) loại phần mềm ứng dụng trong HTTTKT (ERP/ non_ERP) được giả định là đóng vai trò là biến điều tiết cho tác động của sự thỏa mãn của nhân viên kế toán trong quá trình ứng dụng CNTT đến kết quả công việc của nhân viên kế toán và

  1. đặc điểm cá nhân của người sử dụng (nhân viên kế toán) đóng vai trò là biến kiểm soát cho khái niệm kết quả công việc của nhân viên kế toán trong môi trường ứng dụng CNTT, đề tài đã đề xuất một mô hình lý thuyết.

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8